Trên thế giới,
trong các nghiên cứu về dịch bệnh và sức khoẻ, GIS đã được sử dụng để quản lý
các ổ dịch bệnh, mô phỏng sự lan truyền bệnh tật, quản lý các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến các loại bệnh như phân bổ dân
cư, mật độ dân số, điều kiện khí hậu, độ ẩm, nhiệt độ, lượng mưa, phân bố các
loại ký sinh trùng, các vector truyền bệnh,…[5][2][7].
Ở Việt Nam, bệnh truyền nhiễm vẫn còn là vấn đề rất được ngành y tế công cộng
và xã hội quan tâm. Hàng năm, dịch bệnh vẫn xảy ra ở một số địa phương trong cả
nước.[10] Đối với các bệnh viện tuyến dưới, điều kiện trang thiết bị phòng xét
nghiệm còn thiếu thốn, trình độ cán bộ y tế còn hạn chế, khó có thể đưa ra ngay
một chẩn đoán chính xác cho nhiều ca nhập viện, từ đó, gây ra hạn chế cho hệ thống
giám sát hiện hành, như chậm trễ, thiếu dữ liệu hoặc không chính xác[36]. Hơn nữa,
khi có một triệu chứng xuất hiện nhiều trong một thời gian nhất định, phần mềm
“chuyên gia” sẽ gợi ý nghi ngờ đến sự xuất hiện của một dịch bệnh nào đó. Từ
đó, việc tiến hành điều tra dịch và xử lý dịch được triển khai sớm và hiệu quả,
đó chính là nguyên lý chung của “hệ thống cảnh báo dịch sớm”
Tính
cấp thiết
Bệnh truyền nhiệm
có một lịch sử lâu đời cùng với sự phát triển của loài người.Đó không những
là một gánh nặng bệnh tật lớn cho từng cá nhân mà
còn cho toàn nhân loại trên thế
giới. Theo thống kê của WHO có khoảng 15 triệu (>25%) trong số 57 triệu trường hợp tử vong hàng
năm trên thế giới là do BTN. Trong số đó
nhóm
bệnh đứng hàng đầu là nhiễm
trùng hô hấp, HIV/AIDS, tiêu chảy, lao, nhóm
bệnh có vắcxin, sốt rét, bệnh lây qua đường
tình dục,
bệnh viêm màng não, viêm gan B và C, bệnh ký sinh trùng, sốt xuất huyết
và các BTN khác. Gánh
nặng bệnh tật do nhóm BTN
gây ra chủ yếu ở các nước
đang phát triển, đặc biệt ở trẻ em (khoảng 3 triệu trẻ em chết mỗi năm
do bệnh sốt rét và tiêu chảy). Trong
đầu thế kỷ XXI, dịch SARS và cúm A/H5N1 ở người xảy ra đã khởi xướng sự quan tâm của toàn thế giới về những
thách thức mới đối với gánh nặng bệnh
tật do các bệnh này gây ra và đe dọa nghiêm
trọng đến các vấn đề kinh tế xã hội.
Những BTN mới nổi và tái xuất hiện khác hay bệnh do chủ ý của con người gây ra trong khủng bố
sinh học và chiến tranh sinh học đang đe dọa đến vấn đề an ninh công cộng
và cũng đòi hỏi nhiều
nguồn lực khác do tính chất
nghiêm trọng của nó[43],[46]. Tại Việt
Nam, các số liệu báo cáo thống
kê cho thấy, BTN gây dịch đang là vấn đề y tế nghiêm trọng ở Việt Nam[11],[13],[15]. Vì vậy, việc giám sát: thu thập đầy đủ chính
xác, sớm và nhanh số mắc, chết do BTN ở tất cả cộng đồng dân cư theo định nghĩa
ca bệnh; phân tích và phiên giải số liệu để nắm được đặc điểm về nguyên nhân, sự
phân bố dịch tễ theo thời gian, không gian và con người; báo cáo và truyền tải
thông tin tới những người, những cơ quan có trách nhiệm; xây dựng kế hoạch, ra
quyết định đáp ứng phòng chống dịch (PCD) đúng, kịp thời và hiệu quả là một nhiệm
vụ rất quan trọng.
Từ những thập niên 80, một bước tiến mới đã mở ra cho ngành bản đồ những đột
phá lớn. Đó là những bước tiến của công nghệ GIS (hệ thống thông tin địa lý). Với
sự trợ giúp của máy tính, các phần mềm đồ hoạ và công cụ toán học đã nâng
tầm bản đồ truyền thống lên thành một
công nghệ tiên tiến, xuất sắc và cực kỳ hiệu quả. Công nghệ GIS quản lý dữ liệu
không gian dưới dạng bản đồ số. Điều này không những giúp cho việc thành lập,
biên tập và quản lý thông tin trở nên dễ dàng hơn mà còn mở ra nhiều ứng dụng
xuất bản thông minh, nhanh chóng, dễ
dàng, phân tích thông tin đa lớp, đa chiều, chuyển giao kết quả thuận tiện
thông qua việc trao đổi các tệp tin hoặc sử dụng công nghệ điện toán đám mây.
Công nghệ GIS trên Internet (WebGIS), có nhiều ưu việt như tính giản lược, tổng
hợp thông tin, dễ dùng và, không đòi hỏi cấu hình phần cứng, phần mềm cao[28].
Vì vậy, việc áp dụng GIS trong quản lý giám sát dịch bệnh thu nhận thông
tin chính xác, kịp thời về hiện trạng các dịch bệnh tại các địa phương mỗi khi
dịch bệnh bùng phát, dự báo được xu hướng lây lan của dịch bệnh là hết sức cần
thiết cho công tác phòng và chống dịch bệnh.
Xuất phát từ thực tiễn trên, đề tài “Nghiên cứu xây dựng hệ thông tin địa lý thể
hiện số liệu y tế một số dịch bệnh phổ biến” tập trung nghiên cứu quy
trình thu thập và công bố dữ liệu dịch bệnh trên nền tảng hệ thống thông tin địa
lý WebGIS để cảnh báo mức độ lan truyền của dịch bệnh phục vụ cho các nhà quản
lý y tế nắm bắt được mức độ, khả năng lan truyền để có biện pháp dập dịch nhanh
chóng, kịp thời và hiệu quả.